
Vùng đất Trung Hiệp, Vũng Liêm, Vĩnh Long đã sản sinh ra một người con mà tên tuổi, sự
nghiệp mang tầm vóc lớn. Với độ lùi của thời gian, công lao, phẩm chất và tính cách đặc biệt
của đồng chí Võ Văn Kiệt càng được người đời ngưỡng mộ với tất cả sự kính trọng, thương
yêu.
Trong suốt cuộc hành trình từ tuổi thiếu thời tham gia phong trào Thanh niên phản đế, rồi vào
Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1939, lãnh đạo khởi nghĩa Nam kỳ ở Vũng Liêm năm 1940,
cướp chính quyền năm 1945 ở Rạch Giá, làm Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu năm 1954, Ủy viên Xứ
ủy Nam bộ, làm Bí thư Khu ủy Sài Gòn – Gia Định 11 năm trong kháng chiến, làm Bí thư
Khu ủy Khu 9 (Tây Nam bộ), Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục miền Nam, Bí thư Thành
ủy Thành phố Hồ Chí Minh… cho đến khi làm Thủ tướng Chính phủ, nhiệm vụ nào cũng có
những minh chứng sáng tạo, những cống hiến to lớn và để lại dấu ấn.
Khi làm Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu, đồng chí đã chỉ đạo thí điểm việc giao lưu kinh tế giữa hai
vùng – vùng địch tạm chiếm và vùng giải phóng, đem lại lợi ích thiết thực cho cách mạng và
người dân, góp phần làm thay đổi chủ trương bao vây kinh tế không phù hợp lúc bấy giờ.
Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt
Khi làm Bí thư Khu ủy Sài Gòn – Gia Định, đồng chí đã cho xây dựng địa bàn chiến lược, đề
nghị sáp nhập Gia Định vào Sài Gòn – Chợ Lớn, tạo thế trận, gắn kết chặt chẽ phong trào nội
thị, ven đô và vùng nông thôn Đông Nam bộ, Tây Nam bộ; đã xây dựng lực lượng chính trị,
phong trào đô thị, xây dựng lực lượng vũ trang đặc trưng đô thị, tạo nên hệ thống căn cứ
“vành đai đỏ”, làm bàn đạp để các lực lượng biệt động đứng chân tiến hành hoạt động ở nội
đô và sau này là nơi tập kết quân chuẩn bị cho cuộc Tổng tấn công và nổi dậy xuân Mậu Thân
1968, nơi triển khai 5 cánh quân tiến vào giải phóng Sài Gòn 1975.
Khi làm Bí thư Khu ủy Khu 9, đồng chí Võ Văn Kiệt đã có những chỉ đạo sắc bén trong việc
“nhổ” đồn bót địch và sau Hiệp định Paris 1973 thì quyết chống địch lấn chiếm, bởi theo đồng
chí “để mất đất, mất dân lúc này là mất tất cả”.
Dấu ấn Võ Văn Kiệt trong thời xây dựng đất nước rất nhiều; gắn với những biệt danh “Chủ
tịch gạo”, “Tướng xé rào”, “Thủ tướng điện”; người triển khai, thực hiện các công trình, dự án
lớn. Từ lo gạo cho dân, lo nguyên liệu cho nhà máy hoạt động, sản xuất “bung ra”, lo cứu
ngành y tế và phát triển văn hóa, giáo dục; xây dựng các công trình điện năng lớn như: Trị An,
Thác Mơ, Yaly, Hàm Thuận – Đa Mi, Sông Hinh, Phú Mỹ, Cà Mau, đường dây 500 kV Bắc –
Nam; các công trình giao thông như đường cao tốc Thăng Long – Nội Bài, đường cao tốc
Láng – Hòa Lạc, đường Hồ Chí Minh, cầu Mỹ Thuận; khai thác, phát triển Đồng Tháp Mười
và tứ giác Long Xuyên, thoát lũ ra biển Tây, ngọt hóa bán đảo Cà Mau, nhà máy lọc dầu Dung
Quất…
Nhiều người cho rằng đồng chí Võ Văn Kiệt là một nhà lãnh đạo để lại nhiều dấu ấn – dấu ấn
gắn với công việc được giao qua những chặng đường cách mạng; dấu ấn gắn với công trình
ích nước, lợi dân; dấu ấn của con người tiên phong, bất chấp hiểm nguy và thử thách khốc liệt
cả thời chiến lẫn thời bình. Dấu ấn cả cách xử sự đối với con người và công việc. Ông như
người thắp lửa và truyền lửa, tràn đầy năng lượng, đạp bằng mọi khó khăn, tiến lên phía trước.
Chiều 20/5/1994, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đến thăm trạm biến áp Phú Lâm (Thành phố Hồ Chí
Minh), trạm cuối cùng của tuyến đường dây 500 KV Bắc-Nam. (Ảnh: TTXVN)
Có lần ông đã từ chối làm Bí thư Tỉnh ủy Rạch Giá khi được chọn làm thay ông Nguyễn
Thành Nhơn, vì ông không những không chịu lý do (ông Nhơn vốn là một địa chủ) mà còn
hiểu rằng, cả về học vấn lẫn khả năng lãnh đạo, ông Nhơn đều có nhiều mặt hơn mình. Ông đã
chịu nhận kỷ luật Đảng cảnh cáo, kiên quyết không chịu nhận “thăng chức” khi đang là Phó
Bí thư Tỉnh ủy Rạch Giá… Nhiều lần ông quyết định công việc mà không phải sờ vào ghế,
không phải sợ mất ghế như lúc làm đường dây 500kV.
Đồng chí Võ Văn Kiệt được xếp là một nhà cải cách, đổi mới mang tầm chiến lược, có những
quyết sách có tính mở đường trên nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hóa, ngoại giao… Các nhà ngoại
giao của đất nước cho rằng ông là người góp phần đưa Việt Nam ra thế giới, thể hiện tư tưởng
vươn ra thế giới bên ngoài để tồn tại và phát triển, tranh thủ thời cơ đưa đất nước thoát nghèo,
đuổi kịp các nước đi trước. Việc phá thế bị bao vây, cô lập, xúc tiến bình thường hóa với Mỹ,
gia nhập ASEAN… có công lớn của đồng chí. Tổng Thư ký Liên hiệp quốc Ban Ki-moon
từng nhận xét: “Như một động lực chính của những cải cách kinh tế tại Việt Nam, ngài Võ
Văn Kiệt đã mở đường cho sự chuyển mình của đất nước từ đói nghèo sang một thập kỷ tăng
trưởng kinh tế đầy ấn tượng”.
Đồng chí Võ Văn Kiệt được mệnh danh là “một tổng công trình sư” của thời kỳ đổi mới cùng
với đồng chí Nguyễn Văn Linh và những nhà lãnh đạo cùng thời, lớp học trò kế cận của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, khắc họa một thế hệ những nhà lãnh đạo một lòng, một dạ vì dân, luôn có
niềm tin vững chắc vào những quyết sách của mình, bởi những quyết sách ấy có lợi ích nhân
dân trước hết, trên hết và tất cả.
Đồng chí Võ Văn Kiệt là người biết lắng nghe và dám quyết – bởi những quyết định có hàm
lượng tri thức khoa học, có thực tiễn cuộc sống và còn có cả những ân tình, khát vọng của
nhân dân. Đồng chí là một nhà lãnh đạo có khả năng và cả sức chịu đựng trong lắng nghe,
nghe được nhiều chiều, nhiều tiếng nói phản biện, nhiều khi rất “xốn”, rất “rát tai”. Chính vì
vậy mà mọi quyết định của đồng chí không ra đời từ kiểu quan liêu, bàn giấy.
Đồng chí Võ Văn Kiệt được nhắc nhớ như một con người phi thường mà rất gần gũi, bình dị,
thân thương, luôn quý trọng đối với mọi người thuộc mọi tầng lớp, lứa tuổi, vùng miền, ở các
dân tộc, tôn giáo khác nhau, ở mọi thành phần, người Việt Nam trong nước và ngoài nước.
Một nhà lãnh đạo có sức cảm hóa và thu phục nhân tâm với tinh thần hòa hợp dân tộc sẽ tạo
nên sự đồng thuận vì sự phát triển đi lên của đất nước. Điều mà ông luôn tâm đắc là sức mạnh
đại đoàn kết, hòa hợp dân tộc là động lực chủ yếu của sự phát triển đất nước.
Ông đặc biệt thương yêu, trân trọng và tìm cách phát huy người trẻ, cán bộ trẻ và luôn muốn
tạo cho họ cảm giác công bằng, không để mặc cảm bởi “lý lịch” hay quá khứ lỗi lầm. Ông cho
rằng “không ai chọn cửa sinh ra”, và luôn muốn đánh thức mọi tiềm năng, khát vọng trẻ, luôn
muốn người trẻ hiểu rằng “giờ này là giờ nào của Tổ quốc chúng ta đây?”
Đồng chí Võ Văn Kiệt là hình ảnh một nhà lãnh đạo có đầu óc canh tân, nụ cười hồn hậu, tấm
lòng vì con người, vì đất nước. Ông đã đi xa nhưng trong tâm tưởng mọi người vẫn thấy như
luôn có nguồn động viên, khích lệ nơi ông. Làm gì cũng sợ trách nhiệm, thiếu lửa nhiệt huyết,
thiếu cảm hứng sáng tạo… thì khó có hiệu quả và thành công.
Ngày nay, hệ thống pháp luật khá đầy đủ nhưng còn nhiều cơ chế ràng buộc gây cản trở cho
sự phát triển đất nước cần được tháo gỡ. Có nhiều vấn đề cần có địa chỉ trách nhiệm. Có
những điển hình, nhân tố mới, ý tưởng sáng tạo, đề xuất chính đáng… cần được những nhà
lãnh đạo sâu sát, lắng nghe, thấu hiểu… xử lý nhanh. Tất cả để thúc đẩy phát triển nhanh và
bền vững và cũng để vun đắp thêm niềm tin của nhân dân.
Nhiều bài học quý cùng phong cách, phương pháp làm việc của đồng chí Võ Văn Kiệt được
người đời chiêm nghiệm. Và có lẽ bài học lớn nhất, từ khóa rõ nhất, đẹp nhất đó chính là từ
DÂN – cũng chính là cái tên “ông Sáu Dân” – một con người sống trọn vẹn và nồng ấm nghĩa
tình với dân, với nước